Xuân Diệu - một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới mà còn được mệnh danh là "Ông hoàng thơ tình" và "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Ông đã để lại di sản văn học đồ sộ với những tác phẩm mang cảm thức mãnh liệt về tình yêu, tuổi trẻ và sự chảy trôi của thời gian. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu về tiểu sử, phong cách thơ ca độc đáo và những tác phẩm nổi bật nhất của Xuân Diệu.
Xuân Diệu, tên thật là Ngô Xuân Diệu (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916, mất ngày 18 tháng 12 năm 1985), là một nhân vật đa tài trong nền văn học Việt Nam. Ông không chỉ là một nhà thơ, nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn, nhà phê bình văn học mà còn là một chính khách (Đại biểu Quốc hội khóa I).

Xuân Diệu là ông hoàng thơ tình hiện đại
Xuân Diệu có quê cha ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng ông lại sinh ra tại quê mẹ ở Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Xuất thân từ mảnh đất giao thoa văn hóa này, ông sớm hình thành một tâm hồn nhạy cảm. Ông sống ở Tuy Phước cho đến năm 11 tuổi, sau đó vào Nam học ở Quy Nhơn. Cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với những biến động lớn của đất nước, từ phong trào Thơ mới lãng mạn cho đến giai đoạn cách mạng.
Xuân Diệu được mệnh danh là "Ông hoàng thơ tình" và "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" nhờ vào phong cách lãng mạn, hiện đại và đầy khao khát.
Phong cách thơ ông nổi bật nhất ở giai đoạn 1936 – 1944 (với tập Thơ thơ), xoay quanh hai chủ đề lớn: tình yêu và thời gian. Thơ ông thể hiện một khát khao tận hưởng cuộc sống đến cháy bỏng, một mạch ngầm hừng hực sức sống thúc giục con người phải "vội vàng" ôm trọn vẻ đẹp trần thế. Song hành với nó là cảm thức bi quan, tuyệt vọng về sự ngắn ngủi của tuổi trẻ trước dòng chảy thời gian một đi không trở lại. Sự giằng xé giữa khao khát và bi quan này tạo nên chất thơ mãnh liệt, day dứt.
Về nghệ thuật, Xuân Diệu mang hơi thở hiện đại chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng Pháp. Ông đổi mới thơ ca bằng cách sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh, và đặc biệt là áp dụng thủ pháp câu vắt (vắt dòng, vắt ý) để tạo ra nhịp điệu mới mẻ, dồn dập, phá vỡ sự cân đối truyền thống.
Sau năm 1945, phong cách ông chuyển hướng sang đề tài công dân và cách mạng, ca ngợi đất nước và Hồ Chủ tịch, thể hiện trách nhiệm của một nghệ sĩ đối với dân tộc. Dù vậy, Xuân Diệu mãi là người nghệ sĩ đã đem đến cái nhìn lãng mạn, hiện đại và sâu sắc nhất về tình yêu và tuổi trẻ cho thơ ca Việt Nam.

Thơ Xuân Diệu lãng mạn, mang hơi thở hiện đại
>> Xem thêm:
Tôi đã biết yêu rồi, nhưng tình yêu không đủ
Một hơi thở, một ngọn nến không cháy
Tôi đã biết yêu rồi, nhưng không đủ để viết
Những vần thơ đẹp như mơ
---
Có những đêm trăng, những ngày xuân hồng
Khi trời xanh và hoa nở
Tôi đã viết bao nhiêu bài thơ
Nhưng tình yêu không đủ để thành công
---
Tôi đã biết yêu rồi, nhưng không đủ để biết
Những điều nhỏ bé trong cuộc sống
Những khoảnh khắc, những nụ cười
Những cảm xúc, những giọt nước mắt
---
Tôi đã biết yêu rồi, nhưng không đủ để thấy
Những điều đẹp đẽ trong cuộc sống
Những giấc mơ, những ngày hạnh phúc
Những tiếng cười và những giọt nước mắt
---
Tôi đã biết yêu rồi, nhưng không đủ để viết
Những vần thơ đẹp như mơ
Tôi chỉ biết yêu và viết
Với tất cả những gì tôi có.
“Thơ duyên" là một trong những bài thơ tình lãng mạn, tiêu biểu cho phong cách giao hòa giữa cảnh và tình của Xuân Diệu. Bài thơ vẽ nên một không gian chiều thu tĩnh lặng, huyền ảo nơi thiên nhiên và con người dường như có sự gặp gỡ, giao cảm tinh tế một cách "vô tình". Nổi bật là hình ảnh cặp chim chuyền cành, ánh sáng và bóng tối đan xen, tạo nên cảm giác duyên nợ khó tả giữa vạn vật. Bài thơ khơi gợi niềm cô đơn sâu kín, đồng thời thể hiện khao khát hòa nhập mãnh liệt của cái tôi cá nhân vào vũ trụ thơ mộng. Tác phẩm mang vẻ đẹp cổ điển nhưng thấm đượm nỗi buồn hiện đại.
Yêu, là chết ở trong lòng một ít,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
---
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt.
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
- Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
---
Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt,
Những người si theo dõi dấu chân yêu;
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu.
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
Bài thơ khắc họa một cái nhìn bi quan và đau đớn về bản chất của tình yêu, đặc trưng cho cảm thức của Xuân Diệu trước Cách mạng. Ngay từ câu mở đầu nổi tiếng: "Yêu, là chết ở trong lòng một ít", bài thơ đã nhấn mạnh sự mất mát, hi sinh và vô vọng của người đang yêu. Tình yêu trong tác phẩm không phải là niềm vui trọn vẹn mà là một sự giày vò, nơi cả những phút gần gũi cũng mang nỗi buồn chia ly. Tác phẩm thể hiện nỗi cô đơn, sự lạc lối của những người si tình, biến tình ái thành một sợi dây vấn vít, đau khổ.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
---
Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
---
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
"Vội vàng" được coi là "tuyên ngôn thơ ca" của Xuân Diệu và là bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ mở đầu bằng một khát khao tột cùng muốn níu giữ, chế ngự thiên nhiên và thời gian. Xuân Diệu đưa vào thơ Việt Nam một ý niệm hiện đại về thời gian tuyến tính: thời gian trôi đi là vĩnh viễn mất mát. Chính cảm thức bi quan này đã thúc đẩy một lối sống mãnh liệt, hối hả: phải "mau đi thôi", phải tận hưởng, phải "ôm" và "riết" lấy cuộc đời. Bài thơ bộc lộ cái tôi cá nhân đầy bản năng, khát khao yêu và sống một cách vô hạn.
Người ta khổ vì thương không phải cách,
Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người.
Có kho vàng nhưng tặng chẳng tuỳ nơi,
Người ta khổ vì xin không phải chỗ.
---
Đường êm quá, ai đi mà nhớ ngó!
Đến khi hay, gai nhọn đã vào xương.
Vì thả lòng không kìm chế dây cương,
Người ta khổ vì lui không được nữa.
---
Những mắt cạn cũng cho rằng sâu chứa;
Những tim không mà tưởng tượng tràn đầy;
Muôn ngàn đời tìm cớ dõi sương mây,
Dấn thân mãi để kiếm trời dưới đất.
---
Người ta khổ vì cố chen ngõ chật,
Cửa đóng bưng nên càng quyết xông vào.
Rồi bị thương, người ta giữ gươm dao,
Không muốn chữa, không muốn lành thú độc.
một khúc ca triết lý sâu sắc, phân tích nguồn gốc của những nỗi khổ trong tình yêu và cuộc sống. Xuân Diệu chỉ ra rằng khổ đau nảy sinh từ sự "thương không phải cách," "yêu sai duyên," và "mến chẳng nhằm người." Tác giả phê phán sự mù quáng của con người, như việc tin vào "mắt cạn" hay "tim không," và sự cố chấp dại dột khi dấn thân vào con đường sai lầm ("cố chen ngõ chật"). Bài thơ còn thể hiện tâm lý giữ gươm dao sau khi bị thương, không muốn chữa lành, qua đó thể hiện sự bi quan về tính cố chấp của con người trong tình ái.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
---
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
---
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
---
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Đây là một trong những bài thơ thu nổi tiếng nhất của Xuân Diệu, tiêu biểu cho phong cách lãng mạn, tinh tế. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn diễn tả một cách sâu sắc sự cảm nhận của cái tôi cá nhân trước sự chuyển mình của thiên nhiên. Mùa thu hiện lên mang một vẻ đẹp buồn bã, tiêu điều và chứa đựng sự chia ly, tàn tạ. Sự "rét mướt luồn trong gió" hay sự vắng lặng của những chuyến đò đã tạo nên cảm giác u uất, nhạy cảm đối với sự sống đang dần lụi tàn. Bài thơ là sự hòa quyện tuyệt vời giữa nỗi buồn cá nhân và không gian vũ trụ.
Bữa trước giêng hai dưới nắng đào,
Nhìn tôi cô muốn hỏi “vì sao?”
Khi tôi đến kiếm trên môi đẹp
Một thoáng cười yêu thoả khát khao.
---
- Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên,
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền,
Không thể vô tình qua trước cửa,
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên? -
---
Ai đem phân chất một mùi hương
Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương,
Chỉ lặng chuồi theo giòng xảm xúc
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương
---
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu...
---
Cô hãy là nơi mấy khóm dừa
Dầm chân trong nước, đứng say sưa,
Để tôi là kẻ qua sa mạc
Tạm lánh hè gay; - thế cũng vừa.
---
Rồi một ngày mai tôi sẽ đi.
Vì sao, ai nỡ bỏ làm chi!
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.
"Vì sao" là bài thơ thể hiện sự bối rối, bất lực của con người trước bản chất huyền bí của tình yêu. Bài thơ bắt đầu từ câu hỏi trực diện "vì sao?" nhưng nhanh chóng đi đến lời thú nhận rằng tình yêu không thể lý giải bằng lý trí. Xuân Diệu khẳng định tình yêu đến một cách ngẫu nhiên, tự nhiên như "nắng nhạt," "mây nhè nhẹ," và "gió hiu hiu." Tác phẩm nhấn mạnh sự chấp nhận mối tình vô duyên một cách cam chịu, thể hiện thái độ ngu ngơ, khờ khạo của cái tôi cá nhân trước cảm xúc, chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.
Hôm nay, trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn,
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương.
Phất phơ hồn của bông hường,
Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.
Nghe chừng gió nhớ qua sông,
E bên lau lách thuyền không vắng bờ.
- Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn...
Bài thơ thể hiện một trạng thái cảm xúc mơ hồ, siêu thoát, đặc trưng cho chất thơ lãng mạn lãng đãng của Xuân Diệu. Nỗi buồn trong thơ là nỗi buồn không tên, thấm đẫm vào không gian tĩnh lặng của buổi chiều thu. Khung cảnh được nhân hóa đầy thi vị với "Lá hồng rơi lặng," "Sương trinh rơi kín," và "hồn của bông hường." Đặc biệt, tác giả cảm nhận được sự mỏng manh tột cùng của khoảnh khắc và không gian. Tác phẩm này sau đó đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát Mộ khúc, làm tăng thêm sự day dứt, ám ảnh.
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm;
Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em.
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.
Mà ánh sáng đều hoà cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối;
Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành;
Mây theo chim về dãy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ
Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
---
Thôi hết rồi! Còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm.
---
Với sương lá rụng trên đầu gần gũi,
Thôi đã hết hờn ghen và giận tủi.
(Được giận hờn nhau! Sung sướng bao nhiêu!)
Anh một mình, nghe tất cả buổi chiều
Vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh.
---
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời.
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm!
Gió bao lần từng trận gió thương đi,
- Mà kỷ niệm, ôi, còn gọi ta chi...
Một trong những bài thơ tình lãng mạn thấm đẫm nỗi nhớ thương và cô đơn, nổi bật với sự lặp lại đầy ám ảnh của cụm từ "Anh nhớ em". Bài thơ mở ra bằng một buổi chiều lạnh, êm đềm nhưng lại mang cảm giác buồn bã tột cùng vì sự thiếu vắng người yêu. Không gian xung quanh được miêu tả mang màu sắc ly biệt. Tác giả đi sâu vào sự tương tư cô độc, từ việc nhớ hình ảnh, nụ cười đến cảm giác nhớ chính "anh của ngày tháng xa khơi." Tác phẩm này đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc, khiến nỗi nhớ càng trở nên day dứt, phổ biến hơn.
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê...
---
Bờ đẹp đẽ cát vàng
- Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng...
---
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
---
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...
---
Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm
---
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng cũng xin làm bể biếc
Để hát mãi bên gành
Một tình chung không hết
---
Để những khi bọt tung trắng xoá
Và gió về bay toả nơi nơi
Như hôn mãi ngàn năm không thoả,
Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi!
"Biển" là một trong những bài thơ tình nổi bật được Xuân Diệu sáng tác sau Cách mạng, thể hiện sự vận dụng sáng tạo hình ảnh thiên nhiên vào tình yêu. Bài thơ xây dựng hình tượng sóng (anh) và bờ cát (em), trong đó sóng luôn khiêm nhường nhưng khao khát dâng hiến và hòa quyện vào bờ cát. Tình yêu được thể hiện bằng hành động hôn nồng nàn với ý nguyện trường tồn, vĩnh cửu. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa chất thơ mãnh liệt, cháy bỏng quen thuộc với sự giản dị, chân thành của tình yêu gắn bó.
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất,
Anh cho em, kèm với một lá thư.
Em không lấy, và tình anh đã mất
Tình đã cho không lấy lại bao giờ.
---
Thư thì mỏng như suối đời mộng ảo;
Tình thì buồn như tất cả chia ly.
Giấy phong kỹ mang thầm trong túi áo;
Mãi trăm lần viết lại mới đưa đi.
---
Lòng e thẹn cũng theo tờ vụng dại,
Tới bên em, chờ đợi mãi không về.
Em đã xé lòng non cùng giấy mới,
- Mây đầy trời hôm ấy phủ sơn khê.
---
Cũng may mắn, lòng anh còn trẻ quá.
Máu mùa xuân chưa nở hết bông hoa;
Vườn mưa gió còn nghe chim rộn rã,
Anh lại còn yêu, bông lựu, bông trà.
---
Nhưng giây phút đầu say hoa bướm thắm,
Đã nghìn lần anh bắt được anh mơ
Đôi mắt sợ chẳng bao giờ dám ngắm,
Đôi tay yêu không được nắm bao giờ.
---
Anh vẫn tưởng chuyện đùa khi tuổi nhỏ,
Ai có ngờ lòng vỡ đã từ bao!
Mắt không ướt, nhưng bao hàng lệ rỏ
Len tỉ tê thầm trộm chảy quay vào.
---
Hoa thứ nhất có một mùi trinh bạch;
Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ.
Hương mới thấm bền ghi như thiết thạch;
Sương nguyên tiêu, trời đất cũng chung mờ.
---
Tờ lá thắm đã lạc dòng u uất,
Ánh mai soi cũng pha nhạt màu ôi,
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Anh cho em, nên anh đã mất rồi!
Bài thơ thể hiện sự ngây thơ, thuần khiết nhưng cũng đầy đau đớn của mối tình đầu, xoay quanh sự mất mát không thể bù đắp của một tình cảm chân thành, được trao đi nhưng không được đón nhận. "Tình thứ nhất" mang vẻ đẹp trinh bạch, ban sơ nhưng kết thúc trong sự tan vỡ, u uất. Nỗi buồn không được bộc lộ ra ngoài mà len lén chảy vào trong. Tuy nhiên, bài thơ cũng hé lộ hy vọng khi trái tim "còn trẻ quá," báo hiệu khả năng hồi phục và tiếp tục yêu thương.
Từ cuộc đời đầy thăng trầm đến sự nghiệp sáng tác rực rỡ, Xuân Diệu đã khẳng định vị thế là một trong những tượng đài của thơ ca Việt Nam hiện đại. Dù ở giai đoạn lãng mạn cuồng nhiệt với những bài thơ tình bất hủ như Vội vàng, Thơ duyên, hay giai đoạn nhiệt huyết với đề tài đất nước, ông vẫn luôn giữ được giọng thơ độc đáo, hiện đại và giàu cảm xúc. Những tác phẩm nổi bật của Xuân Diệu không chỉ là tài sản văn học vô giá mà còn là minh chứng vĩnh cửu cho khát khao sống, yêu và tận hiến mãnh liệt của "Ông hoàng thơ tình".

      Công ty Cổ phần Sách điện tử Waka - Tầng 6, Tháp văn phòng quốc tế Hòa Bình, số 106 đường
      Hoàng Quốc Việt, Phường Nghĩa Đô, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
      
      ĐKKD số 0108796796 do SKHĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 24/06/2019.
      
      Giấy xác nhận Đăng ký hoạt động phát hành xuất bản phẩm điện tử số 8132/XN-CXBIPH do Cục
      Xuất bản, In và Phát hành cấp ngày 31/12/2019.
      
      Giấy chứng nhận Đăng ký kết nối để cung cấp dịch vụ nội dung thông tin trên mạng viễn thông
      di động số 91/GCN-CVT cấp ngày 24/03/2025.
      
      Người đại diện: (Bà) Phùng Thị Như Quỳnh (Theo Giấy ủy quyền số 2402/GUQ-WAKA/2025 ngày
      24/02/2025).
      
      Người đại diện được ủy quyền phối hợp với CQNN giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo vệ
      quyền lợi Khách hàng: (Bà) Phùng Thị Như Quỳnh - Số điện thoại: 0977756263 - Email:
      Support@waka.vn. - Địa chỉ liên hệ: Tháp văn phòng quốc tế Hòa Bình, số 106 đường Hoàng Quốc
      Việt, Phường Nghĩa Đô, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
      
      Số VPGD: 024.73086566 | Số CSKH: 1900545482 nhánh 5 | Hotline: 0877736289