Khi đọc sách, báo hay lướt qua vài câu chữ có nhịp điệu đặc biệt, hẳn bạn từng tự hỏi: “Ủa, đây có phải thơ không? Nếu đúng thì thuộc thể thơ nào nhỉ?” Việc nắm rõ các thể thơ và cách nhận biết không chỉ giúp bạn phân biệt dễ dàng mà còn mở ra cánh cửa để cảm thơ sâu hơn, thấy được cái hay trong từng vần điệu.
Thể thơ là một thuật ngữ trong thi ca, dùng để chỉ những hình thức tổ chức văn bản thơ ca dựa trên các quy luật về số câu trong khổ hoặc toàn bài, số chữ trong mỗi câu thơ và quy tắc gieo vần (sắp xếp các tiếng có cùng vần để tạo nên sự hài hòa, âm điệu cho bài thơ), nhịp điệu (cách ngắt nhịp, lên xuống giọng khi đọc thơ).
Mỗi thể thơ có những quy tắc và đặc trưng riêng, góp phần tạo nên phong cách, âm hưởng và cảm xúc độc đáo cho tác phẩm. Việc nhận diện thể thơ có vai trò quan trọng trong việc phân tích, cảm thụ và thưởng thức tác phẩm văn học.

Hiểu về thơ để cảm nhận thơ ca sâu sắc
Nói theo cách hình tượng thì thể thơ chính là “khuôn nhạc” của một bài thơ. Nhận diện thể thơ giống như nắm được “chìa khóa” mở vào thế giới thơ, giúp người đọc hiểu đúng về ý đồ nghệ thuật của tác giả, cảm nhận được cảm xúc qua mỗi câu thơ.
Về cơ bản, có thể chia thơ làm 3 nhóm là:
Thể thơ dân gian: Ca dao, dân ca, thơ lục bát, song thất lục bát…
Thể thơ Đường luật (ảnh hưởng từ Trung Quốc): Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn…
Thể thơ hiện đại Việt Nam: Thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, thơ tự do, thơ văn xuôi…
Mỗi thể thơ có một “chất” riêng, từ truyền thống đến hiện đại, phù hợp với từng cách biểu đạt cảm xúc.
Thơ lục bát là thể thơ quen thuộc nhất trong văn học Việt Nam, được xây dựng từ những cặp câu gồm một câu 6 chữ nối tiếp với một câu 8 chữ. Cách gieo vần của lục bát khá đặc biệt: tiếng cuối của câu 6 sẽ vần với tiếng thứ sáu của câu 8, rồi tiếng cuối câu 8 lại bắt nhịp với tiếng cuối câu 6 tiếp theo. Chính sự “móc xích” này tạo nên nhạc điệu ngân nga, liền mạch. Về thanh điệu, thơ lục bát thường tuân theo một quy luật nhất định giữa thanh bằng và thanh trắc, nhờ vậy mà câu thơ vừa êm tai, vừa giàu nhạc tính.

Thơ lục bát là thể thơ dân gian, giàu nhạc điệu và tình cảm
Một ví dụ nổi tiếng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du minh họa rõ nét:
“Trăm năm trong cõi người ta (6)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (8)”
Để nhận biết thể thơ lục bát, chỉ cần quan sát số chữ trong câu (6–8 liên tiếp) và cách gieo vần đặc trưng. Đây là thể thơ gắn bó với ca dao dân ca, đồng thời cũng được các tác giả lớn sử dụng trong nhiều tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Việt Bắc (Tố Hữu)… tạo nên dấu ấn rất riêng của thơ ca Việt Nam.
Thơ song thất lục bát là một thể thơ độc đáo do chính người Việt sáng tạo, kết hợp giữa hai câu 7 chữ (thất ngôn) và một cặp lục bát (6 – 8 chữ). Nếu thơ lục bát thuần túy đem lại sự mượt mà, quen thuộc thì song thất lục bát lại tạo nên nhịp điệu vừa dồn dập vừa ngân nga, rất giàu cảm xúc.
Về luật thơ, một đoạn thường gồm 4 câu: hai câu thất ngôn nối tiếp một cặp lục bát. Cách gieo vần cũng có sự “móc xích” chặt chẽ: câu 7 chữ đầu tiên vần với câu 7 chữ thứ hai, câu 7 chữ thứ hai lại vần với chữ thứ sáu của câu 6, rồi câu 6 tiếp tục vần với chữ thứ sáu của câu 8. Nhờ thế, cả đoạn thơ tạo thành một mạch chảy liên hoàn, uyển chuyển nhưng cũng rất nhấn nhá.
Ví dụ quen thuộc:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.”
Cách nhận biết thể thơ này khá đơn giản: chỉ cần thấy trong bài có hai câu 7 chữ luôn đi kèm với một cặp lục bát, cùng sự liên kết vần điệu chặt chẽ, thì đó chính là thơ song thất lục bát. Đây là thể thơ từng được dùng nhiều trong ca dao, dân ca và trong những tác phẩm lớn của văn học trung đại, thể hiện nét sáng tạo riêng của thơ ca Việt Nam.
Thơ thất ngôn bát cú là một thể thơ Đường luật kinh điển, có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng đã sớm du nhập vào Việt Nam và để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học trung đại. “Thất ngôn” nghĩa là mỗi câu có 7 chữ, còn “bát cú” nghĩa là cả bài gồm 8 câu. Như vậy, một bài thơ thất ngôn bát cú đủ 56 chữ, chia thành 4 phần rõ rệt: đề, thực, luận, kết.
Điểm đặc trưng nổi bật của thể thơ này chính là luật bằng – trắc, niêm – đối rất nghiêm ngặt. Các cặp câu phải đối nhau về ý lẫn thanh điệu, tạo thành sự cân xứng chặt chẽ. Bên cạnh đó, vần thường gieo ở cuối câu chẵn (câu 2, 4, 6, 8) và thường là vần bằng, khiến bài thơ có âm hưởng trang trọng, cân đối và hài hòa.

Nhận diện thể thơ thất ngôn bát cú qua luật thơ Đường
Một ví dụ nổi tiếng là Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
...
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Thơ thất ngôn bát cú thường mang vẻ đẹp cổ điển, súc tích, chan chứa cảm xúc nhưng vẫn trong khuôn khổ chặt chẽ. Ở Việt Nam, thể thơ này không chỉ để lại dấu ấn trong những tác phẩm trung đại mà còn góp phần thể hiện tâm tư, tình cảm, khí phách của nhiều nhà thơ yêu nước.
Cách nhận biết thể thơ này khá đơn giản: chỉ cần thấy bài thơ có 8 câu, mỗi câu 7 chữ, gieo vần bằng ở cuối câu chẵn, niêm luật đối chặt chẽ, thì chắc chắn đó là thất ngôn bát cú Đường luật.
Thơ tứ tuyệt là một dạng thơ Đường luật, trong đó “tứ” nghĩa là bốn, “tuyệt” nghĩa là dứt. Nói đơn giản, đây là thể thơ chỉ có bốn câu, mỗi câu thường 7 chữ (gọi là thất ngôn tứ tuyệt), đôi khi cũng có loại 5 chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt).
So với thơ thất ngôn bát cú vốn dài và chặt chẽ, tứ tuyệt mang dáng vẻ ngắn gọn, súc tích, thường chỉ gói trọn một khoảnh khắc, một cảm xúc hay một bức tranh thiên nhiên trong 28 chữ. Bố cục cơ bản của tứ tuyệt cũng chia thành bốn phần: khởi, thừa, chuyển, hợp – mỗi câu đảm nhận một vai trò để dẫn dắt ý thơ.
Luật bằng trắc và cách gieo vần của thơ tứ tuyệt vẫn theo nguyên tắc của Đường luật, nhưng được giản lược hơn. Vần thường gieo ở cuối câu 1, 2 và 4. Chính sự gọn gàng này khiến thể thơ trở thành một “bản nhạc ngắn” mà vang vọng, gợi nhiều dư ba trong lòng người đọc.
Một ví dụ nổi tiếng trong thơ Việt:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.”
(Dịch nghĩa: Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười. Sự đời qua trước mắt, già đến trên mái đầu.)
Cách nhận biết thể thơ này rất dễ: chỉ cần thấy bài thơ có 4 câu ngắn, thường 7 chữ, gieo vần ở câu 1 – 2 – 4, thì đó chính là thơ tứ tuyệt.
Thơ ngũ ngôn là thể thơ mà mỗi câu có 5 chữ, tạo nên nhịp điệu gọn gàng, súc tích. Thể thơ này vốn có từ lâu trong văn học phương Đông và cũng rất phổ biến trong thơ ca Việt Nam. Nhờ số chữ ít, thơ ngũ ngôn thường mang đến cảm giác nhanh, dồn dập, dễ khắc họa cảnh sắc hoặc bộc lộ cảm xúc một cách cô đọng.
Có hai dạng chính:
Ngũ ngôn tứ tuyệt: gồm 4 câu, mỗi câu 5 chữ, thường dùng để thể hiện một khoảnh khắc, một hình ảnh hay triết lý ngắn gọn.
Ngũ ngôn bát cú: gồm 8 câu, mỗi câu 5 chữ, tuân theo luật đối, niêm và vần tương tự thơ thất ngôn bát cú, nhưng ngắn hơn và giàu tính nhạc.
Ví dụ tiêu biểu:
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.”
(Dịch nghĩa: Thù nước chưa trả, đầu đã bạc,
Gươm báu bao lần mài dưới trăng.)
Thơ ngũ ngôn có âm điệu ngắn, thường nhấn mạnh sự lặp lại đều đặn, dễ gieo vào trí nhớ. Ở Việt Nam, ngoài ảnh hưởng từ Đường luật, thơ ngũ ngôn còn được các nhà thơ hiện đại sáng tạo, biến hóa linh hoạt trong ca dao, dân ca hay những bài thơ thiếu nhi hồn nhiên, vui tươi.
Cách nhận biết thể thơ này cực đơn giản: chỉ cần để ý mỗi câu có 5 chữ đều đặn, kèm nhịp ngắn và gọn, là bạn đã gặp thơ ngũ ngôn rồi.
Thơ bảy chữ là thể thơ trong đó mỗi câu gồm 7 chữ đều đặn. Đây là một dạng thơ phổ biến trong cả thơ cổ điển lẫn thơ hiện đại Việt Nam. So với thơ ngũ ngôn ngắn gọn, thơ bảy chữ có độ dài vừa phải, tạo cảm giác cân đối và dễ gieo vần hơn, nhờ vậy nhạc điệu cũng phong phú, bay bổng.
Trong văn học trung đại, thơ bảy chữ thường được viết theo quy tắc của Đường luật như thất ngôn tứ tuyệt (4 câu, 28 chữ) hoặc thất ngôn bát cú (8 câu, 56 chữ). Đến thời Thơ mới và hiện đại, thể thơ này được cách tân, bớt gò bó, nhịp thơ linh hoạt hơn, tạo điều kiện cho nhà thơ tự do bày tỏ cảm xúc.

Thể thơ 7 chữ hiện đại có vần tự do, linh hoạt
Một ví dụ trong thơ Tố Hữu:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng.”
Chỉ với vài câu thơ bảy chữ, tác giả có thể gửi gắm những tình cảm lớn lao, từ tình yêu quê hương đất nước đến những rung động đời thường.
Cách nhận biết thơ bảy chữ khá dễ: chỉ cần xem trong bài thơ, mỗi câu đều có 7 chữ, nhịp điệu thường rơi vào 3/4 hoặc 4/3, và có gieo vần ở cuối câu – thì đó chính là thể thơ bảy chữ.
Thơ tám chữ là thể thơ trong đó mỗi câu có 8 chữ đều đặn. Thể thơ này không có nguồn gốc từ Đường luật mà được các nhà thơ Việt Nam sáng tạo và phát triển mạnh mẽ trong phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Nhờ độ dài vừa đủ, thơ tám chữ có nhịp điệu chậm rãi, tha thiết, rất hợp để bộc lộ cảm xúc trữ tình sâu lắng.
Nhịp phổ biến thường rơi vào 4/4 hoặc 3/3/2, tạo sự cân đối, dễ ngân vang khi đọc. Vần trong thơ tám chữ thường gieo ở cuối dòng, có thể liền hoặc cách dòng, linh hoạt hơn nhiều so với luật thơ cổ điển. Chính vì vậy, thể thơ này mang hơi thở hiện đại, tự do hơn nhưng vẫn giữ được sự nhạc tính.
Ví dụ trong Quê hương (Tế Hanh):
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới,
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng,
Dân chài lưới bơi thuyền đi đánh cá.”
Những câu thơ tám chữ thường giàu cảm xúc, dễ lay động bởi sự nhịp nhàng, êm ái.
Cách nhận biết rất đơn giản: chỉ cần thấy mỗi câu đều có 8 chữ, gieo vần linh hoạt, nhịp điệu thường 4/4 hoặc 3/3/2 → đó chính là thơ tám chữ.
Thơ tự do là thể thơ không gò bó về số chữ, số câu hay cách gieo vần. Khác với thơ lục bát hay thất ngôn vốn có quy luật chặt chẽ, thơ tự do cho phép nhà thơ thoải mái sắp xếp câu chữ, nhịp điệu và vần điệu tùy theo cảm hứng. Chính vì thế, thể thơ này trở thành lựa chọn phổ biến của các nhà thơ hiện đại khi muốn bày tỏ cảm xúc một cách phóng khoáng, trực tiếp và mới mẻ.
Thơ tự do có thể dài hoặc ngắn, có vần hoặc không vần. Nhịp thơ thường được tạo nên từ cách ngắt câu, xuống dòng, lặp từ hoặc sự thay đổi tiết tấu trong từng câu chữ. Nhờ vậy, nó giống như một dòng cảm xúc tuôn chảy tự nhiên, không bị bó buộc bởi “luật chơi” truyền thống.

Thể thơ hiện đại tự do và phóng khoáng
Ví dụ trong thơ Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.”
Dù không theo số chữ nhất định, đoạn thơ vẫn giàu nhạc tính, đầy rung động và rất dễ chạm đến trái tim người đọc.
Cách nhận biết thơ tự do khá đơn giản: nếu bài thơ không cố định số chữ mỗi câu, số câu mỗi khổ, gieo vần linh hoạt hoặc không vần, nhưng vẫn giữ nhạc điệu và cảm xúc, thì đó chính là thơ tự do.
Thơ văn xuôi là một thể loại văn học đặc biệt, nằm giữa ranh giới của thơ và văn xuôi. Nó không tuân thủ các quy luật về vần điệu, nhịp điệu hay số câu, số chữ chặt chẽ như thơ truyền thống, mà được viết dưới dạng các câu văn xuôi, đoạn văn xuôi.
Điểm độc đáo của thể thơ này là sự tự do tuyệt đối: nhà thơ có thể viết thành đoạn dài, không cần xuống dòng nhiều, nhưng vẫn tạo nên tính nhạc qua nhịp câu, điệp từ, hoặc những hình ảnh gợi cảm. Thơ văn xuôi thường được dùng để thể hiện những suy tư sâu sắc, triết lý hoặc dòng cảm xúc dạt dào mà khó “nén” trong khuôn khổ lục bát, thất ngôn hay thơ tám chữ.
Ví dụ, "Nơi dựa" của Nguyễn Đình Thi:
Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia?/Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào/ Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kỳ lạ/ Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống.
Bài thơ được trình bày dưới dạng một đoạn văn xuôi, ghi nhận lại một khoảnh khắc ngẫu nhiên. Đọc lên, ta thấy rõ nhạc điệu, hình ảnh và cảm xúc dâng trào – nhưng câu chữ lại nối tiếp như văn xuôi.
Cách nhận biết thơ văn xuôi rất đơn giản: nếu văn bản có hình thức giống văn xuôi (không ngắt câu thành dòng thơ) nhưng vẫn gợi nhạc tính, giàu chất trữ tình và biểu tượng, thì đó chính là thơ văn xuôi.
Mỗi thể thơ đều mang một nét quyến rũ riêng, như những nốt nhạc khác nhau trong bản giao hưởng của văn học Việt Nam. Việc nhận biết thể thơ không chỉ giúp bạn đọc thơ đúng nhịp, hiểu thơ đúng ý, mà còn mở ra một hành trình thưởng thức sâu sắc hơn, cảm nhận cái hay – cái đẹp trọn vẹn hơn. Qua cách nhận diện các thể thơ mà Waka đã chia sẻ, lần tới khi vô tình bắt gặp một câu thơ, bạn hãy thử “bắt mạch” xem nó thuộc thể thơ nào, chắc chắn sẽ thấy thú vị và yêu thêm tiếng Việt diệu kỳ.

Công ty Cổ phần Sách điện tử Waka - Tầng 6, Tháp văn phòng quốc tế Hòa Bình, số 106 đường
Hoàng Quốc Việt, Phường Nghĩa Đô, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
ĐKKD số 0108796796 do SKHĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 24/06/2019.
Giấy xác nhận Đăng ký hoạt động phát hành xuất bản phẩm điện tử số 8132/XN-CXBIPH do Cục
Xuất bản, In và Phát hành cấp ngày 31/12/2019.
Giấy chứng nhận Đăng ký kết nối để cung cấp dịch vụ nội dung thông tin trên mạng viễn thông
di động số 91/GCN-CVT cấp ngày 24/03/2025.
Người đại diện: (Bà) Phùng Thị Như Quỳnh (Theo Giấy ủy quyền số 2402/GUQ-WAKA/2025 ngày
24/02/2025).
Người đại diện được ủy quyền phối hợp với CQNN giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo vệ
quyền lợi Khách hàng: (Bà) Phùng Thị Như Quỳnh - Số điện thoại: 0977756263 - Email:
Support@waka.vn. - Địa chỉ liên hệ: Tháp văn phòng quốc tế Hòa Bình, số 106 đường Hoàng Quốc
Việt, Phường Nghĩa Đô, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Số VPGD: 024.73086566 | Số CSKH: 1900545482 nhánh 5 | Hotline: 0877736289