1897: W.Faulkner ra đời ở New Albany, bang Mississippi, Mỹ.
1916-1917: Bắt đầu làm thơ, vẽ và viết.
1918: Tình nguyện vào Không quân Mỹ nhưng bị loại vì không đủ chiều cao.
1919-1920: Theo học ở Đại học Mississippi nhưng bỏ nửa chừng.
1924: Tập thơ đầu tay The Marble Faun[1] (Nông thần cẩm thạch) được xuất bản.
1925: Viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tay Soldiers’ Pay (Lương lính) rồi đi du lịch châu Âu, ở lại Paris khá lâu.
1926: Tiểu thuyết Soldiers’ Pay được xuất bản.
1927: Tiểu thuyết thứ hai Mosquitoes (Muỗi) ra đời.
1928: Nhưng cuốn tiểu thuyết thứ ba Flags in the Dust (Cờ xí vùi trong bụi) bị nhà xuất bản cắt bớt 40.000 từ mà W.F. đành chịu để được xuất bản, dưới cái tựa đề “Sartoris” (Dòng họ Sartoris), vào năm 1929. Gần nửa thế kỷ sau, vào năm 1973, toàn bộ nguyên tác Flags in the Dust được xuất bản, và Sartoris không còn được in ra nữa. Tiểu thuyết này được cho là một đột phá đầy bất ngờ của W.F. trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của ông: ông đã tìm ra được một giọng điệu độc đáo và đề tài, nhân vật riêng biệt của mình, sau hai cuốn tiểu thuyết và một tập thơ bị xem là xoàng xĩnh.
Bắt đầu viết The Sound and the Fury (Âm thanh và cuồng nộ) vào mùa xuân và hoàn thành vào đầu mùa thu.
1929: W.F. bắt đầu viết Sanctuary (Thánh đường che chở). Tiểu thuyết The Sound and the Fury bị nhà xuất bản Harcourt, Brace từ chối, nhưng may thay, được một nhà xuất bản khác, Cape and Smith, chấp nhận và xuất bản vào tháng mười.
W.F. cưới bà Estelle Oldham Franklin làm vợ, sau khi bà ly dị chồng xong. Bà trước đó là người tình thời niên thiếu của ông.
W.F. làm việc ban đêm ở một nhà máy điện và hoàn thành tiểu thuyết As I Lay Dying (Khi tôi nằm chết) trong vòng bảy tuần lễ.
1930: As I Lay Dying được ấn hành.
Cần tiền mua nhà, W.F. viết rất nhiều truyện ngắn đăng báo, vì nhuận bút nhận được thường nhiều hơn là từ tiểu thuyết.
1931: Sanctuary được xuất bản, và Hollywood chú ý đến ông. Và từ đó, W.F. bắt đầu cộng tác với tư cách biên kịch điện ảnh (scriptwriter) với các hãng sản xuất phim lớn ở Hollywood như MGM hay Warner Bros.
1932: Light in August. (Nắng tháng tám) được xuất bản vào tháng hai.
1933: Tập thơ thứ hai, A Green Bough (Một cành xanh) ra đời.
1934: Doctor Martino and Other Stories (Bác sĩ Martino và các truyện khác), một tập truyện trinh thám, được xuất bản.
1935: Tiểu thuyết ngắn Pylon[2] (Cột tháp) ra đời.
1936: Absalom, Absalom![3] được nhà xuất bản lớn Random House ấn hành. Và từ đó về sau, tất cả các tác phẩm của W.F. đều do nhà xuất bản này in ấn.
1938: The Unvanquished (Kẻ bất khuất), một tập truyện ngắn về cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865), được xuất bản.
1939: Tiểu thuyết The Wild Palms (Những cây cọ hoang) ra đời.
W.F. được bầu vào National Institute of Arts and Letters (Viện Nghệ thuật và Văn học quốc gia).
1940: The Hamlet (Thôn làng), tiểu thuyết đầu trong tác phẩm bộ ba The Snopes (Gia đình Snopes), ra đời.
1942: Go Down, Moses[4] and Other Stories, một tập gồm bảy truyện ngắn kết nối nhau thành một tiểu thuyết, được xuất bản vào tháng năm.
1948: Intruder in the Dust (Kẻ đột nhập trong đám bụi), một tiểu thuyết tiếp nối cuốn Go Down, Moses, ra đời và được bán chạy.
W.F. được bầu vào The American Academy of Arts and Letters (Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Mỹ).
1949: Được giải Nobel văn học[5].
1950: Collected stories (Tập truyện), xuất bản năm trước, được National Book Award (Giải thưởng Sách quốc gia).
Nước Pháp trao tặng ông huân chương cao quý Légion d’honneur (Bắc đẩu bội tinh).
1954: A Fable (Một truyện ngụ ngôn) được xuất bản vào tháng tám, và sau đó được nhận giải thưởng danh giá của nước Mỹ, the Pulitzer Prize.
1956: The Town (Thị trấn), cuốn tiểu thuyết thứ hai của bộ ba Snopes. được xuất bản.
1959: The Mansion (Tư dinh), cuốn cuối cùng trong tiểu thuyết bộ ba Snopes. ra đời.
1962: The Reivers (Những tên trộm), tiểu thuyết cuối cùng của W.F. được xuất bản vào tháng sáu. Nhưng chỉ một tháng sau, ngày 6 tháng 7, W.F. bất ngờ qua đời, chắc là do đột quỵ, thọ 65 tuổi.
1963: The Reivers thắng giải Pulitzer về văn học.
Người dịch biên soạn
[1] Theo thần thoại La Mã, faun là thần đồng ruộng và rừng mang thân người nhưng có chân dê và đầu có sừng - ND.
[2] Pylon là cái tháp hay cột cao đánh dấu đường cho máy bay hạ cánh - ND.
[3] Theo Kinh thánh, Absalom là tên của người con trai thứ ba của David, vua nước Do Thái, nổi loạn chống lại cha mình - ND.
[4] Đây là tên của một bài spiritual (bài ca tôn giáo, thường là đạo Cơ đốc, của những người nô lệ da đen ở nước Mỹ) so sánh thân phận nô lệ của người châu Phi ở Mỹ với người Do Thái ở Ai Cập cổ đại - ND.
[5] Ông được chọn cho giải năm 1949 nhưng Ủy ban Nobel chỉ loan báo vào tháng 11 năm 1950, và ông đọc diễn từ nhận giải vào tháng 12 cùng năm. Còn giải Nobel văn chương năm 1950 thì được trao cho triết gia người Anh, Bertrand Russell. Nói cách khác, năm 1950 có hai nhà văn nhận giải cùng lúc, cho hai năm khác nhau - ND.